Từ vài năm nay một số người nhất là các nông dân thường than phiền việc sống cạnh các đường dây cao thế. Có nhiều vấn đề phức tạp xảy ra. Chúng có thể phát ra các tia điện. Tai hại hơn là tai nạn có thể xảy ra trên những người yếu tim. Chúng làm nhiễu loạn các sóng phát thanh và truyền hình. Trường điện từ tạo sự xáo trộn oxy của không khí biến thành ozone. Loại này sẽ tấn công vào cây cối bằng mưa acide. Vấn đề quan trọng nhất vẫn là các yếu tố tác hại đến sức khoẻ của con người và súc vật.
Các nghiên cứu cho thấy có 5 loại bệnh tật:
- Đau đầu, choáng váng, ói mửa.
- Dị ứng.
- Dấu hiệu stress.
- Xáo trộn tim mạch và bạch huyết.
- Ảnh hưởng di truyền.
Các triệu chứng tăng lên khi áp thấp nhiệt đới, trời mưa, sương mù hay gió to.
1. TRUYỀN TẢI VÀ PHÂN PHỐI ĐIỆN NĂNG
a. Từ nhà máy điện đến người tiêu dùng
Nhà máy điện thường nằm xa những khu vực tiêu thụ nên cần hệ thống tải điện. Thoạt đầu dòng điện từ nhà máy phát ra cỡ 24.000 Volt. Biến thế nâng nó lên 400.000 Volt, điện thế dùng cho việc chuyển vận đường dài. Thường các nhà máy nối kết với hệ thống 220 kV, những thị trấn dùng hệ nhỏ là 22 kV và nhà riêng dùng hệ 220 V. Giữa mỗi hệ thống có một biến thế dùng để hạ thấp điện thế tùy theo nhu cầu của khách hàng.
Theo ước định, để giúp cho việc quản lý và tổ chức, người ta phân biệt các hệ thống truyền tải mà điện thế cao hơn hay bằng 66 kV và các hệ thống phân phối mà điện thế thấp hơn 66 kV.
b. Tại sao điện thế cao?
Dòng điện chạy trong một dây dẫn điện luôn phát ra năng lượng, đó là hiệu ứng Joule liên hệ đến việc chuyển đổi một phần năng lượng điện thành năng lượng nhiệt. Hiện tượng này đặc biệt xảy ra trong việc vận chuyển điện nên có sự gia tăng mất điện trên đường dây với cường độ dòng điện. Để tải một lượng lớn với tối thiểu mất mát năng lượng điện, ta phải làm giảm cường độ của dòng điện nhờ vậy sẽ gia tăng điện thế P = U.I. Đó là lý do tại sao việc tải điện được thực hiện ở điện cao thế.
c. Sự thích nghi sản xuất – tiêu thụ
Nhu cầu tiêu thụ điện có thể thay đổi tùy giờ, ngày trong tuần, vùng, khu vực, mùa, nhiệt độ bên ngoài. Ta không thể lưu trữ điện năng. Các nhà máy điều chỉnh thường xuyên việc sản xuất tùy nhu cầu. Cường độ dòng điện trên đường cao thế do vậy cũng thay đổi. Để gia tăng tính uyển chuyển trong việc phân phối, bớt gây hại cho một máy phát và lựa chọn phương thức sản xuất rẻ nhất vào mọi lúc, mỗi trung tâm tiêu thụ được kết nối với toàn bộ các nhà máy sản xuất.
d. Đường điện cao thế
Việc chuyển tải được thực hiện bằng dây trên không tựa trên 2 trụ cách nhau 450 thước cho dây 500 kV và 350 thước cho dây 220 kV. Điểm thấp nhất so với mặt đất là 10m và 7m cho mỗi loại.
Theo qui định: Các đường dây cao thế không được nằm cạnh, nằm song song với đường giao thông hay thông tin tín hiệu tàu hoả vì nó có thể phát sinh các điện thế cảm ứng có nguy cơ làm xáo trộn việc vận hành các tín hiệu… Trong mọi trường hợp, nó không được nằm cạnh hay song song các trục lộ lớn, nếu vượt qua các trục này phải được thực hiện dưới một góc ít nhất 15 độ.
Nhiều yếu tố gây cản trở cho việc thiết lập các đường dây dẫn bằng cáp ngầm dưới lòng đất:
- Về mặt kỹ thuật: Bên trong một đường dây dưới lòng đất tạo ra một dòng điện nhiễu làm giảm khả năng tải dòng điện. Riêng hệ thống phân phối có thể đặt ngầm dưới lòng đất.
- Về mặt thực hành: Một đường dây đặt ngầm có nhược điểm hơn một đường dây trên đất, các hư hỏng khó định vị và thời gian sửa chữa sẽ dài hơn.
- Về mặt kinh tế: Giá lắp đặt khoảng 10 lần.
2. CÁC ẢNH HƯỞNG VẬT LÝ
a. Trường điện với tần số công nghiệp (50 hertz)
Mọi thành phần có điện thế sẽ sản sinh một trường điện trong môi trường bao quanh nó. Ta có thể tính toán hay đo lường cường độ của trường này. Nguồn gốc của điện thế là xoay chiều, thì trường điện nó sinh ra cũng thế. Điện trường xoay chiều được tạo ra giữa mặt đất và dây dẫn. Có thể chứng minh sự hiện hữu của trường này mà không cần các máy đo lường. Chỉ cần nắm trong tay một bóng đèn huỳnh quang và đi cạnh một đường điện cao thế: bóng đèn sáng lên mà không cần pile hay dây dẫn. Các đo lường được thực hiện trên đoạn thấp nhất của dây dẫn giữa hai trụ. Lần lượt dòng điện giảm sút khi ta rời xa về phía phải hoặc trái trục dây điện. Ví dụ, ngoài đồng trống, với khoảng cách 30m từ trục đường dây:
- Đối với đường dây 400 kV là:
6,9 – 6 – 5 – 4 – 3 – 2 – 1 – 0,5 kV/m
- Đối với đường dây 225 kV là:
3 – 2 – 1 – 0,5 – 0,25 kV/m
Trường điện này thường bị các vật dụng tạo thành một màn chắn: trồng trọt, xây dựng, xe cộ, hàng rào… Nói chung, trị giá của trường gia tăng ở phần trên của vật dụng và giảm dần ở mặt đất. Việc giảm sút và cường độ tác động cho sự thay đổi tùy thuộc vào hình thức và dáng vẻ của vật. Trường này tạo những tích điện cho vùng lân cận: đất, cây cối, thú vật, con người. Tất cả các vật bằng kim khí: máy nông nghiệp, xe cộ, bình chứa, máy sấy quần áo, máng xối đều mang một tĩnh điện. Sự tích điện này trở nên nguy hiểm đối với các khối kim loại lớn như một đoàn xe hoả đang di chuyển. Hiện tượng này cũng đồng thời xảy ra trong các hệ thống sông ngòi, các đường ống dẫn nước, dầu, các đoàn xe trên xa lộ.
Các công cụ dùng trong nội trợ cũng tạo ra một điện trường. Ở cách nguồn điện độ 30 cm thì có:
Nguồn |
Đơn vị |
Cường độ trường |
Lò nướng bánh mì |
V/m |
40 |
Bàn là (ủi) |
V/m |
60 |
Máy sấy tóc |
V/m |
40 |
Tủ lạnh |
V/m |
60 |
Sưởi điện |
V/m |
130 |
Mền (chăn) điện |
V/m |
250 |
Các thiết bị văn phòng tạo ra điện trường:
Loại thiết bị |
Đơn vị |
Khoảng cách tạo điện trường |
15 cm |
25 cm |
50 cm |
1 m |
Máy thông gió |
mG |
250 |
50 |
8 |
2 |
Máy photocopy |
mG |
200 |
40 |
13 |
4 |
Máy fax |
mG |
9 |
2 |
– |
– |
Đèn huỳnh quang |
mG |
100 |
30 |
8 |
4 |
Dụng cụ gọt bút chì điện tử |
mG |
300 |
90 |
30 |
30 |
Các thiết bị gia dụng tạo ra điện trường:
Loại thiết bị |
Đơn vị |
Khoảng cách tạo điện trường |
15 cm |
25 cm |
50 cm |
1 m |
Quạt trần |
mG |
– |
50 |
6 |
1 |
Máy điều hòa nhiệt độ |
mG |
– |
20 |
6 |
4 |
Tivi màu |
mG |
– |
20 |
8 |
4 |
Tivi trắng đen |
mG |
– |
10 |
2 |
1 |
Máy giặt |
mG |
100 |
30 |
6 |
– |
Lò sưởi |
mG |
150 |
40 |
8 |
1 |
Máy hút bụi |
mG |
700 |
200 |
50 |
10 |
Đồng hồ kỹ thuật số |
mG |
– |
8 |
2 |
1 |
Đồng hồ dạ quang |
mG |
– |
30 |
5 |
3 |
Máy sấy tóc |
mG |
700 |
70 |
10 |
1 |
Máy cạo râu điện |
mG |
600 |
100 |
10 |
1 |
Máy rửa chén |
mG |
100 |
30 |
7 |
1 |
Lò microwave |
mG |
300 |
200 |
30 |
20 |
Mixer |
mG |
600 |
100 |
10 |
– |
Lò nướng điện |
mG |
20 |
5 |
1 |
– |
Tủ lạnh |
mG |
40 |
20 |
10 |
10 |
b. Cảm ứng từ trường
Khi một dòng điện có cường độ I (bằng Ampère) chạy trong một dây dẫn phát sinh một từ trường (A/m) gọi là cảm ứng từ trường. Bằng hình thức tương tự như điện trường, ta có thể tính toán hay đo lường cường độ của trường này. Nếu là nguồn điện xoay chiều thì trường cảm ứng mà nó tạo ra cũng xoay chiều.
Đối với một đường dây 400 kV có dòng điện 2140 A chạy qua, sự phân phối cường độ của trường này ở hai đầu của trục đường dây trong khoảng cách 45 m sẽ như sau:
35 – 30 – 20 – 15 – 10 – 5 microteslas
và trên đường dây 225 kV (895 A/phase) là:
20 – 15 – 10 – 5 – 1 microteslas
Các trị giá này được đo ở cách mặt đất 1,5m.
Đặt một dây dẫn điện bên cạnh, trường này sản sinh một dòng điện xoay chiều cùng đặc tính và cùng tần số với dòng điện cảm ứng vì vậy các đường cao thế và vô tuyến viễn thông không được đặt chung. Hiện tượng này sẽ gây nhiễu cho thiết bị liên lạc và gây biến chất cho các băng từ tính.
Các máy dùng trong nội trợ cũng như các máy điện đều phát sinh trường từ tính thường rất cao ở khoảng cách vài cm, giảm bớt nhanh chóng và biến mất trong vòng 1m. Cường độ này cũng tùy thuộc vào đặc tính của từng loại công cụ tính bằng microteslas/khoảng cách 30 cm:
Nguồn |
Cường độ (mT) |
Lò điện kiểu hở |
3,5-30 |
Máy giặt |
0,15-3 |
Máy hút bụi |
2-20 |
Lò viba |
4-8 |
Máy cạo râu |
0,01-7 |
Sấy tóc |
0,01-7 |
c. Ảnh hưởng vành ngoài
Quanh các dây điện cao thế, không khí bị ion hoá khiến các phân tử của nó biến thành ion. Từ đó không khí trở nên có tính dẫn điện và tạo quanh dây điện một màn bọc khí dẫn điện mà đường kính tùy thuộc vào nhiều yếu tố và bị hạn chế bởi dòng điện xoay chiều.
Dọc đường dây phát sinh những tia phóng điện vào không khí kèm tiếng nổ và ánh sáng tím thấy được trong đêm tối. Đó là hiện tượng phóng điện hào quang, sự phóng điện quanh dây điện tạo ảnh hưởng vành ngoài (effet corona). Cường độ của sự phóng điện này tùy thuộc vào điện thế, đường kính dây điện và bề mặt của chất dẫn. Mưa, sương mù và tuyết làm gia tăng đáng kể việc hình thành các điểm phóng điện hào quang. Hiện tượng tương tự cũng xảy ra dọc các dây chuyền cách điện tốt, nó sẽ mạnh thêm nếu có sự tiếp xúc xấu với thanh kim loại hay nếu các cách điện bị lỏng hoặc hư hỏng.
Ảnh hưởng vành ngoài này là nguyên nhân tạo ra tổn thất công suất điện, ô nhiễm khí quyển, các tiếng ồn và các nhiễu truyền tải.
- Tổn thất công suất tăng khi thời tiết ẩm ướt hay sương mù.
- Ô nhiễm môi trường gia tăng gấp đôi: tạo ra ozone và oxyde azote.
- Phóng điện hào quang giải phóng électron năng lượng cao biến oxygène trong không khí thành ozone 3 O2 2 O3
Ozone là chất khí với năng lượng rất nhỏ trong thiên nhiên nhất là sau cơn dông. Ở thượng tầng khí quyển một lớp ozone lọc các tia cực tím của mặt trời. Một sự tập trung khoảng 50 ppb (50 phần tỷ) tạo héo úa cho cây cối. Đối với loài người đây là tác nhân làm sưng phổi.
Ảnh hưởng vành ngoài tạo ra oxyde azote dẫn đến sự hoà hợp azode và ozygène trong không gian. Trong không khí ẩm, loại hơi màu đỏ này tạo ra acide nitreux và acide nitrique tùy sự phản ứng:
N2 + O2 2 NO
2 NO + O2 2 NO2
2 NO2 + HH2O HNO2 + HNO3
- Các tia phóng điện nhỏ dọc theo đường dây tạo một tiếng động nhất định. Cường độ của nó mạnh nhất và như được khuếch đại lúc ở gần các chuỗi sứ cách điện. Cư dân sống cạnh đường dây cao thế thường nghe tiếng ồn này vào buổi tối. Ở chiều cao 25 đến 125m, tiếng ồn đường dây cao thế dao động giữa 40 và 50 décibel. Nếu khách vãng lai không nhận ra tiếng động này thì đối với cư dân việc lặp đi lặp lại tiếng động này trở thành cực hình cho cuộc sống.
- Cuối cùng, ảnh hưởng vành ngoài là tác nhân của các nhiễu trong những máy thu thanh, thu hình mà tần số nằm trong khoảng vài mégahertz và trải dài khá xa ở đầu này cũng như đầu kia.
d. Các ảnh hưởng thứ cấp
Các ion tự nhiên của không khí bị phá hủy hoàn toàn cạnh các đường dây cao thế. Các trường điện xoay chiều triệt tiêu ảnh hưởng của lực Coulomb tránh được sự ion hoá tức khắc của cặp ion vừa được hình thành. Theo Giáo sư Métadier thì kết quả là có một loại không khí nghèo oxion, đó là các vitamine của không khí.
Toàn bộ các biến đổi đã được khảo cứu có thể tạo ra những ảnh hưởng rất khác biệt tùy thuộc vào vị trí, địa hình, dưới lòng đất, một số vi khí hậu. Ví dụ sự hiện diện của các khối đá mang tính sắt từ dưới lòng đất có thể tạo cảm ứng những dòng điện gây nhiễu.
Trung tâm nghiên cứu địa cực Pháp ở Beauce bị buộc phải dời đi sau việc điện hoá đường tàu hoả Paris-Orléans nằm cách đó cả 40km. Điều này chứng tỏ rằng các vi năng lượng địa cực bị xáo trộn với một khoảng cách thật xa.
e. Thời gian chịu sự tác động
Các qui tắc hiện hành buộc trường điện tại các khu vực có người ở phải dưới 5000 V/m.
Thời gian mà cư dân phải chịu tác động tại các trường điện cao thường không kéo dài lâu. Theo một số Ủy ban điều tra ở Pháp (thường được các cơ quan điện lực tài trợ về mặt tài chính, thì thời gian tiếp xúc với một trường điện cao hơn 1000 V/m chỉ có 0,3% đối với con người và 2,5% cho các loài bò. Thời gian có mặt trong một trường cảm ứng từ tính vượt quá 25 microteslas chỉ là 0,024% cho con người.
Không có bất cứ qui tắc nào liên quan đến từ trường mà được xem là quá yếu để tạo những ảnh hưởng xấu. Các nhà chuyên môn tránh né mọi tranh luận đưa đến việc so sánh với các điện từ trường sản sinh từ các động cơ điện từ có thể cùng giá trị hoặc cao hơn.
3. Các ảnh hưỡng sinh học
Mọi hiện tượng sinh học đều có mối liên hệ với chu kỳ thiên văn, khí tượng, thời tiết và địa cực. Tính không cộng hưởng với nhịp điệu vũ trụ tạo nên sự mất cân đối và dẫn đến tật bệnh. Tất cả những gì sống trên địa cầu đều có mối liên hệ với năng lượng từ vũ trụ. Trường điện của dãy Ngân hà được ước lượng vào khoảng 10 Tera-ampère. Khi sự đồng bộ, sự cộng hưởng hay sự kết hợp giữa vũ trụ và một bộ phận trong cơ thể bị lệch đi, bệnh tật sẽ xuất hiện.
Ta biết rằng nhịp sống của một con gián tùy thuộc vào hormone bí mật nằm trong một hạch gần cuống họng chịu tác động của ánh sáng từ đơn nhãn của côn trùng. Hay nếu hạch của con gián bệnh được đặt trên một con gián khác với nhịp tự nhiên đã bị thay đổi một cách nhân tạo, các mầm móng ung thư sẽ xảy ra trong cuống họng. Tương tự nếu ta đặt một quả trứng để ấp dưới một sóng tần số thấp thì việc nở sẽ không xảy ra được.
Bởi vậy, con người từ khi có mặt trên địa cầu đã được chương trình hoá để sống trong một trường điện từ nào đó:
- Có những bộ phận riêng biệt để thích nghi với lối sống và các thay đổi của trường từ địa cực.
- Hình thể xoắn đinh ốc của các phân tử ADN tương ứng chính xác với một dao động tần số thấp.
Các khảo cứu ở Mỹ (Becker và Marino, Adey) và Tây Ban Nha (Delgado) xác nhận là sức khoẻ bị tác động bất lợi khi sống ở cạnh đường điện cao thế, đặc biệt:
- Não bộ phát ra sóng điện từ chậm, tần số thấp nên khá nhạy cảm với các bức xạ tần số gần với hệ thống 50 Hz.
- Hiện diện tại các trường trong thời gian lâu dài, chỉ vài microteslas cho từ trường và vài chục V/m cho trường điện cũng tạo xáo trộn cho hệ thần kinh và gây ung thư.
Vài lưu ý quan trọng:
- Địa từ trường ở mức 50 microteslas là trường một chiều. Con người rất nhạy cảm với các thay đổi của nó. Con người không thể thích nghi với các trường dao động hình sin dù rõ ràng chúng rất yếu.
- Trường điện tự nhiên ở mặt đất nằm từ 100 đến 200 V/m, một chiều. Qui định an toàn hiện thời đối với 5000V/m là 25 đến 50 lần cao hơn.
- Một trường tĩnh điện nằm giữa 12 và 25 kV/m sẽ tạo cảm giác lâm râm khó chịu. Vượt 1000 kV/m các xáo trộn nặng sẽ xuất hiện: thở khó khăn, co rút.
Thực tế, đây không phải là điện thế cũng không phải là cường độ trường làm xáo trộn hay gây hại mà chỉ là dòng điện mà nó tạo ra dọc theo bộ phận. Các thử nghiệm được thực hiện tại các phòng thí nghiệm nghiên cứu các phản ứng sinh lý chuyển biến theo cường độ của dòng điện chạy trong cơ thể. Nhờ vậy người ta cũng phát hiện rằng đối với một dòng điện xoay chiều 50 chu kỳ, sự vận chuyển của ion bắt đầu trong cơ thể là 50 micro-ampère, vượt hơn 50 milliampère thì mọi cái biến thành một cảm giác kiến bò: đối với các cường độ vài milli-ampère xuất hiện trạng thái rung và co cứng cơ bắp; từ 6 đến 10 mA, sự co cứng đủ để gây trở ngại cho đối tượng trong các hoạt động.
Dĩ nhiên, các thử nghiệm này được thực hiện trong phòng thí nghiệm tạo nên những tác động trực tiếp và tức thời. Trong cuộc sống hằng ngày, dòng điện yếu hơn, nhưng ở lâu tại nơi này sẽ tạo những ảnh hưởng tai hại khác nhau tùy thuộc vào các phay năng lượng của từng nơi.
Các khảo cứu tại các phòng thí nghiệm cho đến ngày nay chưa giúp giải thích chính xác các nguyên nhân của các hiện tượng quan sát được.
Các kết quả nghiên cứu của Liên Xô thực hiện từ 1963 đến 1972 cho thấy là những công nhân làm việc tại các trạm cao thế thường tỏ ra mệt mỏi, buồn nôn, đau đầu, nóng nảy, giấc ngủ dao động.
Theo Korobkova, vào 1972, các thợ điện có nguy cơ mạch không đều, huyết áp giảm, điều hòa thân nhiệt bị xáo trộn.
Khảo cứu đầu tiên được công bố ở Hoa Kỳ vào tháng 3 năm 1979 bởi Wertheimer và Leeper (Electrical wiring configurations and childhood cancer) ở vùng Denver. Trong 344 trẻ bị ung thư thì những em sống cạnh đường dây cao thế hay các đường dây cường độ dòng điện cao tỷ lệ bị chết cao gấp đôi. 6 trong số các em bé này đã thiệt mạng vì sống cạnh các trạm biến áp. Tác giả của công trình giải thích rằng các từ trường xoay chiều mức độ yếu sẽ tác động đến sự phát triển của chứng ung thư. Bản nghiên cứu này đã được tranh cãi nhiều vì không có sự đo lường về từ trường tại các địa hình nghi ngờ. Tuy nhiên, vài năm sau các điều trên được xác nhận.
Đến tháng 12/1982, Wertheimer và Leeper qua việc nghiên cứu đối với những người trưởng thành tại vùng Denver đã nhận ra một ảnh hưởng tương tự về một từ trường xoay chiều trên tỷ lệ bệnh ung thư. Dù ơ mức độ yếu, 0,1 militesla, các trường này vẫn có những ảnh hưởng sinh lý tai hại.
Tháng 8 năm 1981: Perry, Reichmanis, Marino và Beker làm sáng tỏ mối tương quan giữa tỷ lệ người tự tử với việc cư ngụ tại một từ trường cao hơn 1 militesla.
Các bác sĩ Marino và Becker còn chứng minh rằng các trường xoay chiều dù chỉ 150 V/cm vẫn gây hại cho con người với nhiều cách khác nhau:
- Các trường điện phóng điện vào cơ thể gây trở ngại cho sự phát triển của các tế bào.
- Sự căng thẳng mà các trường điện áp đặt sẽ gây xáo trộn cho sự chuyển hoá, tăng huyết áp và việc sản xuất cortisone.
- Sự căng thẳng mãn tính kéo theo các chứng bệnh tim, thận, tiêu hoá, thần kinh và một số xáo trộn khác như khớp và các bệnh tim mạch. Đồng thời cũng làm tăng thêm các chứng bệnh hiện hữu.
Sống trên 30 ngày tại một trường điện như thế sẽ làm giảm sút trọng lượng và cấu trúc máu bị thay đổi.
- Tháng 7/1982, S.Milham Jr công bố một khảo cứu thực hiện ở Anh trên 438.000 công nhân bị chết, người ta nhận ra là tỷ lệ người bị chứng bạch huyết cao nhất nơi những người tiếp xúc thường xuyên với điện từ trường.
- Kết luận này cũng được Mac Dowell xác nhận vào tháng 1/1983 qua bài viết trên tờ The Lancet.
- Nhằm kiểm soát lại các kết luận đáng sợ của Wertheimer và Leeper, D.Savitz đã thực hiện một cuộc nghiên cứu mới dưới sự bảo trợ của Hiệp hội các nhà sản xuất điện ở Hoa Kỳ và cũng hoàn toàn xác nhận các kết luận trước đây rằng: nếu từ trường xoay chiều vượt 2,5 x 10–7 teslas, điều này sẽ kéo theo sự gia tăng 1,3 đến 1,6 lần ung thư và 2 lần bệnh bạch cầu.
- Các nghiên cứu khác chuyên biệt hơn nhằm tới một số đối tượng hoạt động trên những điện từ trường được xem là yếu phát hiện một xác xuất bệnh ung thư vượt trội hơn mức bình thường.
Trong một phúc trình công bố vào năm 1990, Cơ quan môi trường Hoa Kỳ đã cho rằng tất cả các điện từ trường đều tạo ảnh hưởng ung thư, đáng kể nhất là các máy điện mà trẻ em là thành phần nhạy cảm nhất. Bản phúc trình còn chỉ ra rằng phụ huynh vì hoạt động nghề nghiệp phải thường xuyên làm việc trong từ trường sẽ gia tăng cùng bệnh trạng. Đó có thể là sự biến chất của yếu tố di truyền.
Các chuyên gia Liên Xô và Đức cũng phân tích ảnh hưởng của các đường dây cao thế trên loài ong. Trong một trường 800 V/m mức sản xuất mật sẽ gia tăng nhưng sự bội hoạt sẽ làm kiệt sức và đưa tới cái chết.
4. Các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề
Các nhà Cảm xạ Địa sinh học đã đối mặt với các vấn đề của cư dân sinh sống cạnh các đường dây cao thế hay các đường tàu hỏa điện. Dĩ nhiên, giải pháp tốt nhất là chớ nên mua nhà hay xây cất cạnh các địa điểm này.
Đối với các nhà sản xuất điện năng, nếu loại bỏ lưới truyền tải ngầm (vì tốn kém và bất cập về mặt kỹ thuật) thì việc đặt ngầm các hệ thống phân phối trung và hạ thế lại có tính khả thi hơn bao giờ hết.
Để giảm thiểu tác hại từ các đường điện trên mặt đất, ta có thể căng một lưới kim loại dưới đường dây cao thế nhằm loại bỏ tác động của điện từ trường . Lưới này được tiếp đất và giải pháp này rất tiện lợi cho những khu nhà ở tập trung.
Đối với cư dân, cần tạo một lá chắn bằng việc trồng cây và đồng thời đặt một lưới trên mặt tiếp giáp với đường dây điện. Mặt khác, tất cả các mắt lưới điện đều phải tiếp đất để tạo một loại “lồng Faraday” nhằm chặn đứng các trường. Nên trù liệu đặt tại mỗi phòng một máy ion hoá. Thoả mãn các điều kiện trên, ta có thể sống thoải mái trong cái không gian ô nhiễm này.
Cũng có những giải pháp khác để chọn lựa, trong số này phải kể đến giải pháp giảm thiểu việc truyền tải điện bằng cách hạn chế các việc buôn bán điện xuyên quốc gia. Tiếp đến ngừng phát triển các nhà máy điện hạt nhân.
Chỉ nên duy trì các nhà máy sản xuất điện cạnh các khu công nghiệp (tiêu thụ nhiều năng lượng). Ứng dụng nguyên tắc của Carnot, theo đó: mọi sản xuất năng lượng đều phóng ra nhiệt lượng để biến mất trong khí quyển hay sông ngòi biển cả. Một sự tiếp cận lớn hơn giữa các nhà máy sản xuất điện với các thành phố hay xưởng tiêu thụ nhiệt lượng (sưởi ấm…) sẽ tránh được phí phạm này.
Đối với các mục đích khác, sử dụng tối đa các nguồn nguyên liệu tại địa phương là đủ. Hãy dành quyền chủ động cho các địa phương và cộng đồng trong việc lựa chọn các thể thức nhằm thoả mãn nhu cầu năng lượng của họ…..
Nguồn: dantri.net